Quảng cáo
Biti's: Cách

Nguyên tắc cơ sở dồn tích là gì? Nội dung và ứng dụng của nguyên tắc

Kinh doanh Cập nhật 30 tháng 11

Bạn đã bao giờ nghe nói về nguyên tắc dồn tích chưa? Đây là một khái niệm đóng vai trò rất lớn trong việc trong việc ghi nhận, và báo cáo những giao dịch tài chính trong doanh nghiệp. Trong bài viết này sẽ hiểu rõ hơn về nguyên tắc cơ sở dồn tích, và chúng được áp sụng trong lĩnh vực kế toán như thế nào nhé.

Khái niệm về nguyên tắc cơ sở dồn tích

Nguyên tắc cơ sở dồn tích là nguyên tắc vô cùng quan trọng trong lĩnh vực kế toán, chúng được áp dụng rộng rãi trong những hoạt động kinh tế, và cũng như tài chính của doanh nghiệp. Nguyên tắc cơ sở dồn tích được hiểu như là mọi hoạt động giao dịch liên quan đến tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, và những chi phí phải được ghi nhận lại vào trong sổ sách kế toán lúc chúng xảy ra, và không có sự phụ thuộc vào thời điểm thu hoặc chi tiền thực tế. 

Việc vận dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích trong báo cáo kết quả kinh doanh, hay báo cáo tài chính giúp phản ánh một cách chân thực, và toàn diện những giao dịch kinh tế trong những khoảng thời gian tương ứng. Mục đích là để đảm bảo được những thông tin kế toán cung cấp được chính xác, và liên tục. Giúp cho người xem hiểu rõ về tình hình tài chính, và những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Khái niệm về nguyên tắc cơ sở dồn tích

Khái niệm về nguyên tắc cơ sở dồn tích (Ảnh minh họa)

Nguyên tắc cơ sở dồn tích phản ánh chân thực về tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí doanh nghiệp ngay tại một thời điểm cụ thể. Việc này rất quan trọng trong phân tích hiệu suất kinh doanh, định giá doanh nghiệp hay quyết định đưa ra những chiến lược cho phù hợp. 

Dựa trên nguyên tắc này sẽ giúp cho doanh nghiệp theo dõi được những giao dịch qua các kỳ kế toán khác nhau như khoản nợ phải thu, nợ phải trả hay khấu hao dự phòng,... Thông qua đó giúp doanh nghiệp quản lý tốt hơn các hoạt động tài chính khoảng thời gian dài. Từ đó giúp hỗ trợ đưa ra những quyết định về chiến lược, có được những chiến lược tài chính, và tạo ra những giá trị cho các cổ đông trong doanh nghiệp.

Nguyên tắc cơ sở dồn tích không những áp dụng ở VIệt Nam, mà còn được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Chính vì điều đó, đã chứng minh được sức mạnh và hữu ích của nguyên tắc này mang lại trong việc ghi nhận kế toán, và việc lập báo cáo tài chính. Nhờ vậy mà tính nhất quán, và độ tin cậy đưa ra những thông tin kế toán được đảm bảo, và góp phần trong việc phát triển và duy trì ổn định trên thị trường tài chính toàn cầu.

Những nội dung về nguyên tắc cơ sở dồn tích

Sau đây là cách để áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích trong chế độ kế toán theo thông tư 200/2014/TT-BTC và thông tư 133/2016/TT-BTC như sau:

Đối với ghi nhận tài sản trong quá trình mua:

Việc ghi nhận tài sản trong quá trình mua yêu cầu doanh nghiệp phải có được quyền quản lý, và kiểm soát tài sản. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải sở hữu hoặc có quyền trong sử dụng, và kiểm soát tài sản trong suốt quá trình mua. Những tài sản mua từ bên ngoài, yêu cầu doanh nghiệp đó phải có các chứng từ hợp lệ để chứng minh được quyền sử dụng tài sản và sở hữu chúng.

Người mua cũng cần được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho những tài sản đã đó. Việc này là nhằm giúp đảm bảo các doanh nghiệp cam kết chuyển tiền, hoặc đã  chuyển tiền mua tài sản, và những tài sản đó được coi là tài sản của doanh nghiệp.

Những nội dung về nguyên tắc cơ sở dồn tích

Những nội dung về nguyên tắc cơ sở dồn tích (Ảnh minh họa)

Những tài khoản nợ thông thường sử dụng dùng để ghi nhận tài sản bao gồm như bên sau: TK152 (nghĩa là tài sản cố định), TK 153 (xây dựng cơ bản), TK211 (Tiền mặt), TK156 (Thiết bị và công cụ). 

Nợ tài sản 133 (tức là nợ phải trả nội bộ) nhằm phản ánh những khoản nợ nội bộ có liên quan đến tài sản mua.

Đối với ghi nhận doanh thu trong quá trình bán tài sản:

Doanh thu của doanh nghiệp chỉ được ghi nhận khi đáp ứng đủ 5 điều kiện quan trọng trong Thông tư Kế toán số 14  (VAS 14) đã được đưa ra.

Năm điều kiện trên là đồng nghĩa với việc doanh thu sẽ được ghi nhận khi đã được chuyển giao những rủi ro, và lợi ích cho người đã mua, và doanh nghiệp không còn quyền kiểm soát hàng hóa nữa. Với doanh thu cũng cần được ước tính tương đối chắc chắn, và có được khả năng thu hồi lợi ích kinh tế trong thời gian tương lai.

Trong lúc ghi nhận doanh thu từ việc bán hàng, và những điều kiện trên đều được đáp ứng thì doanh nghiệp sẽ nợ các tài khoản 111 (doanh thu bán hàng), 131 (giảm trừ doanh thu), 112 (là những doanh thu khác), và những tài khoản liên quan khác.

Với tài khoản 511 (Nợ phải trả) sẽ phản ứng được số tiền mà người mua cần thanh toán cho doanh nghiệp.

Tài khoản (33311 (là thuế giá trị gia tăng phải nộp) sẽ phải được ghi nhằm phản ánh số tiền nộp thuế VAT cho cơ quan thuế của nhà nước.

Nội dung nguyên tắc cơ sở dồn tích

Nội dung nguyên tắc cơ sở dồn tích (Ảnh minh họa)

Ví dụ như sau: 

Một công ty M&T đang vận dụng phương pháp kê khai để kiểm tra lượng tồn kho và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Kỳ vừa qua, doanh nghiệp đã có những giao dịch kinh tế như sau: 

Với nghiệp vụ 1: Ngày 1/7 nhân viên kế toán của doanh nghiệp M &T thực hiện xuất hóa đơn đầu ra cho lô hàng được bán với giá trị là 100 triệu đồng (chưa bao gồm thuế GTGT, nếu tính thuế tỷ lệ gia tăng được áp dụng là 10%). Khách hàng đã thanh toán đã chuyển khoản 60 triệu đồng (đã thanh toán). 

Dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích đến ngày 1/7, nhân viên kế toán của M&T ghi nhận lại doanh thu giao dịch cho lô hàng này là 100 triệu đồng. Chi tiết các hạch toán sẽ được thực hiện như sau:

Tài khoản 112 (Khách hàng): nợ 60 triệu

Tài khoản 131 ( Thuế GTGT chưa khấu trừ): nợ 50 triệu 

Tài khoản 511 (Doanh thu bán hàng): Có 100 triệu

Tài khoản 33311 (Thuế GTGT phải nộp): Có 10 triệu

Nghiệp vụ 2: Ngày 1/7, doanh nghiệp M&T đã chuyển khoản để thanh toán cho tiền thuê mặt bằng cho quý 3, tổng cộng hết 60 triệu. Dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích, mỗi tháng có 10 triệu được phản ánh vào chi phí.

Ngày 1/7, nhân viên kế toán hạch toán của doanh nghiệp hạch toán như sau: 

Tài khoản 242 (Tiền mặt và tương đương): nợ 60 triệu

Tài khoản 112 (khách hàng): có 60 triệu

Cứ cuối mỗi tháng 7,8,9 nhân viên kế toán của M&T tiếp tục phản ánh chi phí cho việc sản xuất kinh doanh trong tháng như sau:

Tài khoản 642 (chi phí thuê mặt bằng): nợ 20 triệu

Tài khoản 242 (Tiền mặt và tương đương): có 20 triệu

Áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích vào tình hình thực tế của doanh nghiệp

Ví dụ 1:

Lô hàng mua và được nhập vào kho của công ty vào ngày 1/12/2019, với tổng giá trị là 100 triệu. Nhưng mãi đến cuối năm 2019, lô hàng này vẫn chưa được bán đi, và vẫn nằm trong kho của công ty. 

Ngày 31/12/ 2019, giá trị cùa lô hàng được nhập vào có giá trị giảm xuống chỉ còn 90 triệu (do sự mất giá của sản phẩm, và sự thay đổi trên thị trường). 

Trong năm 2019, công ty đưa ra quyết định bán 60% số tổng của lô hàng đó, tổng giá trị bán hàng thực tế là 150 triệu. Bên khách hàng đã thanh toán ⅔ tiền hàng là 100 triệu. Số tiền hàng còn lại sẽ được thanh toán vào năm 2020.

Theo nguyên tắc cơ sở dồn tích, công ty ghi nhận doanh thu năm 2019 của lô hàng đã bán được là 150 triệu, mặc dù là 50 triệu còn lại sẽ thanh toán vào năm 2020.

Ví dụ 2:

Doanh nghiệp A bán hàng một lô hàng có giá trị 700 triệu cho doanh nghiệp B vào ngày 15/4/ 2022.

Doanh nghiệp B đã nhận được hàng và thanh toán cho doanh nghiệp B là 500 triệu vào ngày 25/4/2022, và 200 triệu còn lại sẽ được thanh toán vào ngày 29/4/2023. 

Theo như nguyên tắc cơ sở dồn tích, doanh nghiệp A ghi nhận mức doanh thu bán hàng vào ngày 15/4/2022, ngay vào thời điểm giao dịch bán hàng được diễn ra, mặc dù số tiền còn lại sẽ được thanh toán vào ngày 29/4/2022.

Áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích vào tình hình thực tế của doanh nghiệp

Áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích vào tình hình thực tế của doanh nghiệp

Những lỗi trong nguyên tắc cơ sở dồn tích

Đối với việc kinh doanh, hầu hết các doanh nghiệp đều tuân theo những nguyên tắc cơ sở dồn tích. Tuy nhiên, còn còn tồn tại một số doanh nghiệp vi phạm về những quy định đã được đưa ra.

Ví dụ 1: Trong ngành xây dựng, có một vài doanh nghiệp gặp phải tình trạng khách hàng nợ tiền lâu với số tiền lớn. Nhằm đảm bảo việc khách hàng thanh toán cho doanh nghiệp, một vài công ty đã yêu cầu khách hàng thanh toán trước, và sau đó mới xuất hoá đơn, ghi nhận doanh thu. Tuy nhiên, đây là cách vi phạm nguyên tắc cơ sở dồn tích và vi phạm luật thuế GTGT.

Theo như quy định của luật thuế GTGT, phải xuất hoá đơn và ghi nhận ngay tại thời điểm xảy ra giao dịch, hoặc những dịch vụ được thực hiện. Việc này không phụ thuộc vào khách hàng đã thanh toán, hay chưa thanh toán. Việc xuất hoá đơn và ghi nhận sau khi khách hàng thanh toán là không đúng với quy định.

Ví dụ 2: 

Một doanh nghiệp A muốn tăng chi phí cho doanh nghiệp, và đã quyết định liên hệ với công ty B, đây là công ty có hoá đơn đầu vào dư thừa. Doanh nghiệp A đã mua những hóa đơn này từ doanh nghiệp B nhằm mục đích để ghi nhận chi phí kế toán. Nhưng trên thực tế doanh nghiệp A không phát sinh chi phí tương ứng với hoá đơn. 

Mà doanh nghiệp B trước đó đã bán hàng cho những khách lẻ nhưng không xuất hoá đơn, và ghi nhận doanh thu. Hiện tại, doanh nghiệp B không có phát sinh giao dịch với doanh nghiệp A nhưng xuất hoá đơn, và ghi nhận doanh thu từ công ty A.

Hai việc làm trên là hành vi vi phạm nguyên tắc cơ sở dồn tích, và cũng là vi phạm luật thuế GTGT.

Bài viết cung cấp những thông tin tổng quan về nguyên tắc cơ sở dồn tích, và cách vận dụng chúng vào trong lĩnh vực kế toán. Nguyên tắc giúp đảm bảo sự chính xác và minh bạch về những thông tin tài chính, từ đó doanh nghiệp có thể đưa ra được những phân tích và quyết định trong kinh doanh.