Các cổ phiếu phổ thông và sự ưu tiên một công ty được ủy quyền để phát hành, theo Điều lệ công ty của họ. Vốn cổ phần đại diện cho quy mô vốn tự có của công ty và có thể tìm thấy trên bảng cân đối (hoặc ghi chú) của báo cáo tài chính. Các công ty có thể phát hành nhiều vốn cổ phần hoặc mua lại cổ phiếu hiện đang thuộc sở hữu của cổ đông.
Trong phân tích báo cáo tài chính, tài sản thuộc vốn tăng là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế, công ty có thể sử dụng nguồn vốn đó để đầu tư vào các dự án, máy móc, mục đích làm tăng lợi nhuận của công ty. Mặt khác, các công ty liên tục phát hành cổ phiếu và bán ra thị trường thứ cấp có thể để tăng thêm vốn chủ sở hữu.
Loại cổ phần được cung cấp bởi loại quỹ có mục đích kép, có cơ hội để tăng giá vốn nhưng không cung cấp một mức thu nhập cố định nào cho danh mục đầu tư của cổ đông.
Vốn cổ phần thường thu hút các nhà đầu tư kỳ vọng vào sự tăng trưởng vốn mạnh hơn là tăng trưởng thu nhập, bởi lợi nhuận chỉ được tạo nên bởi giá cổ phiếu tăng.
1. Rủi ro mất toàn bộ hoặc một phần khoản đầu tư ban đầu mà nhà đầu tư phải đối mặt.
2. Rủi ro mất giá trị vốn của một công ty. Vốn của công ty có thể bao gồm thiết bị, nhà máy và chứng khoán có thanh khoản cao.
1. Ví dụ, khi một người nào đó đầu tư $10,000 vào thị trường chứng khoán, họ phải đối mặt với rủi ro vốn với $10.000 đầu tư đó.
2. Nếu một công ty không bảo hiểm giá trị các tài sản của mình, công ty đó sẽ phải đối mặt với rủi ro vốn từ hỏa hoạn, lũ lụt, trộm cắp v.v..
Một hoạt động trong báo cáo lưu chuyển tiền mặt, gồm các hoạt động bên ngoài như phát hành cổ tức bằng tiền mặt, thêm hoặc thay đổi việc cho vay vốn, phát hành và bán cổ phiếu. Công thức cho dòng tiền từ hoạt động tài chính như sau: Tiền thu từ phát hành chứng khoán hoặc các khoản nợ - các khoản tiền phải trả như Cổ tức và Mua/ bán chứng khoán
Việcnày trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ chủ yếu muốn xác định dòng chảy tiền mặt giữa công ty và chủ sở hữu và các chủ nợ. Số âm có nghĩa là công ty đang nợ nhiều, nhưng nó cũng có thể là do công ty được thực hiện thanh toán cổ tức và mua lại cổ phần, điều này sẽ làm cho chủ đầu tư cảm thấy vui vẻ khi nhìn thấy số âm.
Một thước đo kết quả kinh doanh đánh giá khả năng tạo ra dòng tiền của một công ty thông qua hoạt động kinh doanh. Nó được tính bằng cách cộng lại các khoản mục phi tiền mặt như khấu hao tài sản vô hình, khấu hao tài sản hữu hình, chi phí tái cấu trúc và tổn thất vào lợi nhuận thuần.CFAT = Lợi nhuận thuần + Khấu hao TSHH và TSVH + Các chi phí phi tiền mặt khácCũng được gọi là “dòng tiền sau thuế” (After Taxes Cash Flow)
CFAT rất quan trọng đối với nhà đầu tư khi đánh giá khả năng trả cổ tức của một công ty. CFAT càng cao thì khả năng công ty trả cổ tức cao càng lớn. CFAT cũng đánh giá tình trạng sức khỏe của công ty và kết quả kinh doanh so với các đối thủ cạnh tranh trong một khoảng thời gian nhất định.
Các chứng khoán được đầu tư ngắn hạn, có chất lượng tín dụng cao và tính thanh khoản cao. Cũng được coi là “tiền mặt và các khoản tương đương tiền”.
Cũng như trái phiếu và cổ phiếu, các khoản tương đương là một trong 3 lớp tài sản chính. Các chứng khoán này có rủi ro thấp, lợi nhuận thấp. Các khoản tương đương tiền bao gồm tín phiếu kho bạc Mỹ, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, chấp phiếu ngân hàng, thương phiếu và các công cụ thị trường tiền tệ khác.
1. Bất động sản, số tiền chủ sở hữu đầu tư vào bất động sản. Nếu ai đó mua một ngôi nhà, các khoản thanh toán sẽ làm giảm tiền mặt trong vốn chủ sở hữu của họ.
2. Một từ khác cho cổ phiếu phổ thông. Thị trường chứng khoán bằng tiền mặt là điều tương tự như thị trường chứng khoán. Đó là nơi các công ty huy động vốn bằng cách bán quyền sở hữu cổ phiếu, và là nơi các nhà đầu tư mua và bán quyền sở hữu cổ phiếu.
1. Ngược lại , thị trường vốn đại diện cho giá trị của một tài sản cho chủ sở hữu của nó dựa trên sự tăng cầu. Nếu ai đó mua một căn nhà $100,000 và ngôi nhà hiện nay trị giá $130,000, chủ sở hữu sẽ có $20,000 vốn chủ sở hữu tiền mặt trong tài sản và $ 30,000 trong thị trường vốn. Tiền mặt trong vốn chủ sở hữu là ổn định và tăng mỗi tháng như một phần của thanh toán thế chấp hàng tháng của mình đi theo hướng trả lại các khoản vay . Thị trường vốn có thể thay đổi bất cứ lúc nào, cũng giống như thị trường bất động sản và điều kiện kinh tế biến động.
2. Thị trường chứng khoán bằng tiền mặt đầu tiên ở Mỹ là thị trường chứng khoán Philadelphia và New York Stock Exchange. Nhà đầu tư có thể mua và bán chứng khoán bằng tiền mặt thông qua một tài khoản với một công ty môi giới.
Tiền trả cho cổ đông, thông thường dựa vào khoản thu nhập hiện tại của công ty hoặc lợi nhuận lũy kế. Tất cả cổ tức được trả bởi ban giám đốc và được đánh thuế như thuế thu nhập.
Các nhà đầu tư dài hạn - những người muốn tối đa hóa lợi ích của họ nên họ sẽ tái đầu tư. Hầu hết các công ty môi giới sẽ cho bạn 2 sự lựa chọn: tái đầu tư hoặc có cổ tức bằng tiền mặt.
Một sự kích cầu của người bán dành cho người mua để thanh toán hóa đơn trước ngày đến hạn. Người bán thường sẽ làm giảm số tiền còn nợ của người mua theo một tỷ lệ nhỏ hoặc một số tiền xác định. Nếu sử dụng đúng cách, chiết khấu tiền mặt sẽ cải thiện thời gian thu hồi tiền bán hàng trong chu kỳ luân chuyển tiền mặt của doanh nghiệp.
Ví dụ, trong chiết khấu tiền mặt thông thường, người bán cung cấp một chiết khấu 2% trên giá trị hóa đơn tới hạn 30 ngày, nếu người mua đã trả tiền trong vòng 10 ngày đầu tiên sau khi nhận được hóa đơn.
Cung cấp chiết khấu tiền mặt nhỏ sẽ có lợi cho người bán vì nó sẽ cho phép anh ta thu được tiền mặt sớm hơn. Người bán càng nhận được tiền mặt sớm, anh ta càng có thể đầu tư tiền trở lại vào hoạt động kinh doanh sớm để mua nhiều nguồn cung cấp hơn và / hoặc phát triển công ty hơn nữa.
Tiền thu được khi tài sản lưu động được bán ra trong Chương 11 về thủ tục phá sản. Điều này có thể thu được thông qua việc bán chứng khoán tương đương tiền mặt hoặc thông qua việc bán tài sản cá nhân mà dựa vào đó nợ có thể được bảo đảm.
Tiền mặt thế chấp chỉ là một vấn đề đối với thủ tục phá sản doanh nghiệp. Khi chủ nợ có quan tâm đến tiền của công ty (như một sở hữu trái phiếu), tiền mặt được tạo ra khi các khoản thu này được bán và được coi là tài sản thế chấp bằng tiền mặt và do đó các con nợ không thể sử dụng mà không có sự đồng ý của chủ nợ hay của toà án.
Thẻ tiền mặt có thể là bất kỳ thẻ nào mà bạn có thể đưa vào máy ATM hoặc các phân phối khác bằng tiền mặt, hoặc thẻ tín dụng trả trước, hoặc một thẻ với giá trị tiền đặt trước từ một cửa hàng đặc biệt (Costco hoặc tàu điện ngầm), được đọc bởi đầu đọc thẻ và được sử dụng để trả tiền cho các sản phẩm, dịch vụ tại cửa hàng bán lẻ đó.
Nhiều giao dịch tài chính hiện nay được giao dịch thông qua thẻ, nó có nhiều ưu điểm hơn so với việc sử dụng "tiền mặt". Vì vậy, không hề ngạc nhiên khi các tổ chức tài chính và các nhà bán lẻ muốn sử dụng "thẻ tiền mặt" trong tiếp thị của họ, và việc này sẽ có các lợi ích khác nhau cho họ.
Một nhật ký tài chính ghi chép tất cả các khoản thu và chi tiền mặt, bao gồm có tiền gửi ngân hàng và khoản tiền rút khỏi tài khoản. Các bút toán trong sổ thu chi tiền mặt sau đó được kết chuyển vào sổ cái. Sổ thu chi tiền mặt được đối chiếu định kì với bảng sao kê ngân hàng bằng phương pháp kiểm toán nội bộ.
Các doanh nghiệp lớn thường chia sổ thu chi tiền mặt thành hai phần. Phần thứ nhất là nhật ký bồi hoàn tiền mặt, trong đó ghi chép tất cả các khoản thanh toán tiền mặt, như các khoản phải trả và chi phí hoạt động. Phần thứ hai là nhật ký thu tiền mặt, trong đó ghi chép các khoản thu được bằng tiền mặt, như khoản phải thu và bán lấy tiền mặt.
Phụ cấp mà khoản tiền được trả bằng tiền mặt, thay vì được hoàn trả vào một ngày nào đó. Chủ lao động thường sử dụng cho các khoản phụ cấp tiền mặt cho nhân viên để trang trải chi phí, ví dụ, các bữa ăn và chỗ ở.
Phụ cấp tiền mặt cũng bị coi là 1 khoản thu nhập tính thuế, giống như tiền lương. Sau đó, các nhân viên có thể yêu cầu bồi thường các chi phí liên quan đến việc tăng thu nhập.
Giá của việc nắm giữ, hay còn gọi là “bảo tồn” hàng tồn kho. Chi phí bảo tồn bao gồm có chi phí lưu kho, bảo dưỡng (đặc biệt với những mặt hàng dễ hư hỏng), bảo hiểm và các chi phí vô hình khác như chi phí cơ hội và tổn thất do bị trộm cắp.
Một trong những lợi ích lớn từ việc mở nhiều cửa hàng trên mạng là không có chi phí bảo tồn. Thay vào đó, nhiều nhà kinh doanh cổ phiếu trực tuyến vẫn cần các chi phí đó để vận chuyển hàng từ vị trí trung tâm, hoặc ngược lại là vận chuyển hàng từ các vị trí khác trong khu vực.
Một quyền chọn với mức giới hạn lợi nhuận được thiết lập trước. Một quyền chọn giới hạn được tự động thực hiện khi chứng khoán cơ bản đóng cửa tại giá bằng hoặc cao hơn (với quyền mua) hoặc bằng hoặc thấp hơn (với quyền bán) giá giới hạn của quyền chọn.
Khái niệm này cũng có thể được gọi là capped-style option
Một phương pháp mà người được bảo hiểm có thể sử dụng để kiểm soát các khoản thanh toán phí bảo hiểm mà họ phải trả theo hợp đồng. Kế hoạch dòng tiền cho phép người mua bảo hiểm cân nhắc dòng tiền phí bảo hiểm của mình so với dòng tiền riêng của anh ta. Điều này cho phép người mua bảo hiểm có thể nắm giữ quỹ của mình càng lâu càng tốt, và do đó kiếm được một số tiền lãi suất lớn hơn.
Kế hoạch dòng tiền có thể áp dụng cho tất cả các hình thức thanh toán không chỉ riêng bảo hiểm. Bất kỳ người tiêu dùng nào cũng có thể hưởng lợi từ việc giữ dự trữ tiền mặt để được hưởng lãi suất thay vì thanh toán tiền ngay. Số tiền thanh toán càng lớn, vấn đề này sẽ càng trở nên quan trọng hơn, vì tỷ lệ lãi suất tiềm năng tương ứng sẽ lớn hơn.
Một thước đo về sức mạnh tài chính của một công ty, tính như sau:
Dòng Tiền Trên Mỗi Cổ Phiếu = (Dòng Tiền Từ Hoạt Động Kinh Doanh - Cổ tức ưu đãi) / Số Cổ Phiếu Đang Lưu Hành.
Dòng tiền trên mỗi cổ phiếu cho thấy lợi nhuận sau thuế cộng với khấu hao, trên mỗi cổ phiếu cơ sở. Nhiều nhà phân tích tài chính chú trọng vào các dòng tiền trên giá trị cổ phiếu hơn so với các khoản thu nhập trên mỗi giá trị một cổ phiếu. Trong khi một thu nhập trên mỗi giá trị cổ phiếu có thể dễ dàng vận dụng để thể hiện sự tích cực hơn so với thực tế, do đó phải đặt câu hỏi cho độ tin cậy, tiền mặt khó sửa đổi, nên những gì một số nhà phân tích tin đó là độ giá trị chính xác và tính bền vững của một mô hình kinh doanh đặc thù.
Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của công ty là phần lợi nhuận của công ty được phân bổ cho mỗi cổ phần đang lưu hành của cổ phiếu phổ thông, và cũng giống như dòng tiền trên mỗi cổ phiếu, có vai trò như là một chỉ số về lợi nhuận của công ty. Bởi vì dòng tiền trên mỗi cổ phiếu đưa vào để xem xét khả năng tạo ra tiền của công ty, nên nó được một số nhà phân tích xem như một biện pháp chính xác hơn về tình hình tài chính của một công ty so với thu nhập trên mỗi metric cổ phiếu. Dòng tiền trên mỗi cổ phiếu đại diện cho dòng tiền thuần một công ty sản xuất, trên cơ sở mỗi cổ phiếu.
Các khoản nợ thường dùng để đáp ứng hoạt động hàng ngày hoặc cho việc mua bán. Lý do cần một khoản vay có thể tùy thuộc vào từng mùa, nhu cầu mở rộng kinh doanh hoặc thay đổi trong chu kỳ kinh doanh.
Các khoản vay có thể giúp trong tình huống tạm thời, nhưng nếu các khoản vay này vẫn tồn tại, đồng nghĩa rằng công ty cần cải thiện dòng tiền và hãy làm cách nào đó để bắt khách hàng thanh toán nhanh hơn.
Một khoản mục kế toán biểu thị số tiền mà công ty tạo ra từ hoạt động kinh doanh thường ngày. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh không bao gồm vốn dài hạn hoặc chi phí đầu tư. Nó được tính bằng:Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh = EBIT + Khấu hao – Thuế
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh được thể hiện trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ của công ty hàng quý hoặc hàng năm. Lợi nhuận mà công ty nhận được từ hoạt động đầu tư được báo cáo tách biệt, vì nó không phải từ hoạt động kinh doanh.So sánh dòng tiền từ hoạt động kinh doanh với EBITDA có thể giúp người dùng hình dung được công ty sử dụng tài chính ngắn hạn như thế nào.
Các khoản mục trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ trình bày sự thay đổi tổng thể về tình trạng sử dụng tiền của công ty thông qua bất kỳ lãi hay lỗ từ việc đầu tư vào thị trường tài chính hoặc thành lập các công ty con, và làm thay đổi quỹ tiền đầu tư vào tài sản vốn như máy móc và trang thiết bị.
Khi phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ của một công ty, việc xem xét từng khoản mục nhỏ tạo nên sự thay đổi tổng thể của tình trạng sử dụng tiền là rất quan trọng. Trong nhiều trường hợp, công ty có dòng tiền tổng âm trong một quý cụ thể, nhưng nếu tạo ra được dòng tiền dương từ hoạt động kinh doanh, thì dòng tiền âm đó chính là kết quả của việc đầu tư nhiều nhưng không cần thiết.